QuảngĐà.net
BÍ MẬT CỦA ÔNG THẦY THỌT
Phạm thành Châu
“ Con ơi nhớ lấy lời cha. Một năm ăn
trộm bằng ba năm làm”
Hội An là một thành phố cổ. Khoảng thế kỷ 15, 16 đă là thương cảng phồn vinh của
miền Nam thời Chúa Nguyễn. Các thương thuyền ngoại quốc thường ghé trao đổi hàng
hóa. Người Nhật, người Tàu, người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha có đại diện
thương cục ở đấy. Sau nầy, ḷng sông Thu Bồn, phía Cửa Đại bị phù sa lấp , cạn
dần, tàu thuyền lớn không vào được nên các thương nhân bỏ đi, chỉ c̣n lại người
Tàu. Họ là thần dân nhà Minh bên Tàu, khi Măn Thanh cai trị nước Tàu, họ bỏ xứ
ra đi, đến Hội An họ ở luôn tại đấy. Một số lấy người bản xứ, sinh con, xưng là
người Minh Hương để tỏ ḷng tưởng nhớ đến nhà Minh. Tôi là người Minh Hương
nhưng không biết tiếng Tàu, cũng không rơ gốc gác ḿnh ra sao.
Trước khi Hội An thành thương cảng, nó là lănh thổ của Chiêm Thành. Di tích c̣n
lại có thành Trà Kiệu, cố đô của Chiêm Thành, cách Hội An độ ba mươi cây số.
Ngay tại Hội An thỉnh thoảng những người đào đất bắt gặp những tượng đá, vật
dụng, nghe nói có khi gặp vàng nữa, nhưng dĩ nhiên chẳng ai dại ǵ nói ra. Trừ
vàng , thường th́ không ai muốn giữ các tượng đá trong nhà. Họ sợ ma Hời –chỉ
người Chiêm Thành- vật chết. Họ đem để trước b́nh phong đền miếu hoặc gốc cây đa.
tôi có thấy một tượng phụ nữ Chàm bằng đá, rất đẹp, để trước miếu Quảng An, sau
có ông thầy dạy vẽ, thầy Kiệm, đem về dùng làm mẫu cho học tṛ tập vẽ. Chúng tôi
sợ ma Hời bắt thầy chết, vậy mà thầy vẫn sống nhăn, chả sao cả.
Về cái miếu Quảng An, người ta đồn đó là miếu thờ ma Hời, nhưng không ai cúng ma
Hời, chỉ thấy ngày rằm, mùng một có ông Ba Râu, một ông già ra thắp nhang, Xuân
Thu nhị kỳ có lễ cầu an, rất long trọng. Lúc đó tôi c̣n học tiểu học không quan
tâm đến, nhưng mỗi tối đi ngang qua miếu tôi sợ kinh khủng, không dám nh́n vào
miếu, sợ ngài vật chết. Miếu nầy nằm ngay đầu hẽm đi vào nhà tôi. Đường hẽm nầy
đi thông từ đường Phan Chu Trinh qua đường Trần Hưng Đạo. Thời pháp thuộc nó có
tên kiệt Công Quán Cũ, c̣n đường Trần Hưng Đạo có tên là đường Công Quán, v́ có
trú sứ của tên công sứ Pháp. Trong kiệt Công Quán nầy có giếng nước ngọt nổi
tiếng. Đó là giếng Bá Lễ. Ngay đến bây giờ Hội An vẫn không có nước máy. Nhà nào
cũng có giếng trong vườn để lấy nước sử dụng. Nhà khá giả thường thuê người gánh
nước giếng Bá Lễ về làm nước uống, nấu ăn. Thế nên giếng lúc nào cũng tấp nập
người đến kéo nước. các cô, bà lấy đó làm nơi tṛ chuyện. Tối lại, có các chàng
lính tráng lăng văng ra tán tỉnh, cập kè các cô, thế nên về ban đêm con đường
thường xuyên tối thui. V́ tuy có điện đường, nhưng các chàng lính lấy đá ném cho
vỡ bóng đèn để tiện làm ăn. Nhà tôi cách giếng Bá Lễ vài khu vườn, trong một
khuôn viên rất rộng. giữa là nhà thờ tộc, quây quần chung quanh là nhà con cháu.
Phía sau là nhà người bác, tôi không rơ liên hệ ra sao, nhưng các người con của
bác ta, hễ lớn th́ tôi kêu bằng anh, chị, nhỏ th́ tôi kêu mầy tao cũng chẳng ai
sửa sai. Người bác nầy không khá giả ǵ. Ông ta bán kẹo kéo. Sáng sớm ông nấu
đường trong một cái chảo, rồi đổ ra một cái thau, thau được đặt trên một hồ nước
nhỏ cho mau nguội, xong ông đánh đường trên một chạc ba gắn trên cột nhà cho
trắng đường, thành cục kẹo bự. Ông đặt cục kẹo trên bàn, banh ra, đổ đậu phọng
rang vào và kéo hai mép lại với nhau. Giống bác sĩ mổ bụng bịnh nhân, chữa trị
xong, bỏ ruột gan vào và khâu lại vậy. Tôi thường dậy sớm, qua nhà ông ta, chờ
khi đậu phọng rang đă nguội, tôi bóp cho vỏ mỏng tróc ra, bỏ vô mồm, ăn chán chê
mà ông ta không nói tiếng nào. Coi bộ ông thích tôi lắm, buổi sáng nào ông cũng
để sẵn cho tôi, khi th́ chén cơm chiên, khi th́ tô cơm hến để tôi điểm tâm trước
khi đi học. Ông kể lại lai lịch nghề kẹo kéo của ông ta một cách hănh diện. Rằng
trước đây, vào khoảng thập niên 40, 50 Hội An chỉ có một người tàu bán kẹo kéo.
Cách làm kẹo kéo khá đơn giản, nhưng chú chệt giấu nghề rất kỷ. Chú ở chung với
người bà con trong một tiệm buôn. Sáng sớm, mới bốn năm giờ, chú đă dậy nấu kẹo.
Chẳng phải chú siêng năng ǵ, nhưng chú sợ ban ngày, có người nh́n thấy sẽ bắt
chước. Người bác tôi, lúc đó c̣n rất trẻ, làm công nhân khuân vác trong tiệm, âm
mưu ăn cắp nghề nên xin chủ ngủ nhờ trong tiệm. Tối đến, bác ôm chiếc chiếu, leo
lên đống hàng hóa nằm ngủ, đến gần sáng bác hé mắt theo dơi chú chệt làm kẹo.
Tiến tŕnh làm kẹo th́ bác nắm được, nhưng có một thứ nước mà chú chệt vô pḥng
ngủ đem ra đổ vào đường trước khi nấu th́ bác chịu, không biết là chất ǵ? Sau,
bác ŕnh lúc chú đi vắng, ṃ vô buồng chú t́m. Hóa ra là hủ giấm chú giấu kỹ
trong gậm giường. Sau nhiều lần nấu thử, bác tôi thành công. Bác làm một thùng
kẹo kéo, nhờ người bạn đem đến trước tiệm, nơi chú chệt trọ, đứng đó suốt buổi,
lại bán rất rẻ. Chú chệt buồn t́nh bỏ đi. Thế là bác tôi hành nghề kẹo kéo từ đó.
Nghề nầy cũng chỉ đủ nuôi vợ con sống qua ngày. Đi rả cẳng suốt ngày mà cái nhà
tranh vách lá ngày càng xiêu vẹo. Vợ bác bán hàng vặt ở chợ Hội An, cũng chẳng
phụ được bao nhiêu. Tôi nhớ một lần bác bị cảm v́ hôm trước mắc mưa giông. Buổi
sáng chủ nhật đó, bác trùm mền nằm, không làm kẹo. Tôi qua hỏi thăm, bác bảo
người lạnh run, đau đầu...ǵ đó. Tôi bảo bác đưa tiền, tôi ra tiệm thuốc tây mua
thuốc cho. Tôi cầm tiền, ra tiệm thuốc tây, kể bịnh cho người bán thuốc, mua về
cho bác uống, chỉ gần trưa là bác dậy nấu kẹo chuẩn bị đi bán. Bác bảo tôi đọc
cái toa thuốc cho bác nghe, chữa bịnh ǵ, uống thế nào...xong bác đưa tiền cho
tôi ra tiệm thuốc tây mua một mớ. Thế là bác vừa bán kẹo vừa làm thầy thuốc. Bác
ôm thùng kẹo kéo đi khắp vùng ngoại ô, về cả các nơi xa xôi hẻo lánh. Người nào
bịnh bác cũng vào thăm, sờ đầu, bắt mạch (?!), hỏi bịnh trạng rất kỹ, bác cho ít
thuốc uống tạm. Chiều về bác bảo tôi ra nhà thuốc kể t́nh trạng của những bịnh
nhân của bác và nhà thuốc bán cho thuốc chữa bịnh, thế là hôm sau bác đem thuốc
cho thân chủ uống. Người dân nông thôn ít khi dùng thuốc tây, khi bịnh chỉ uống
nước rễ cây, lá cây,xông, cạo gió, nay dùng đúng thuốc, linh nghiệm như thần.
Bác không biết chữ, chỉ biết đọc được các con số. Thỉnh thoảng bác nh́n lên lịch
và làm ra vẻ thông thái “Chà bữa nay tám tây rồi mà chỉ mới mồng hai âm lịch!”
bác mù chữ nhưng nhớ công dụng các loại thuốc tây rất tài. Chỉ cần tôi đọc cái
toa một lần là bác nhớ măi. Đa số là thuốc trụ sinh, thuốc cảm và một vài thứ
quảng cáo trên đài phát thanh. Bác c̣n mua thêm thuốc bán trong tiệm thuốc bắc
như Tiêu Ban Lộ, Cứu Cấp Lục Thần Thủy...Khi cho bịnh nhân uống bác thường gói
vào một tờ giấy khác, nên ai cũng tưởng thuốc do bác bào chế. Thuốc tây thường
là thuốc viên, bác bỏ vô cối giả thành bột, cũng gói thành những gói nhỏ. Mẹ tôi
gọi bác là Ông Thầy Thọt, chẳng phải bác què chân mà v́ mỗi sáng bác cứ đem
thuốc ra đâm thọt trong cái cối nghe cọc cạch, cọc cạch. Nhờ sáng kiến đó mà bác
nổi danh mát tay ở vùng thôn quê. thỉnh thoảng tôi thấy có người đem gà, vịt ,
chiếu Bàn Thạch đến biếu bác. Cuộc sống của gia đ́nh bác coi ṃi khá hơn trước
chứ chẳng giàu có ǵ. Vậy mà đột nhiên một hôm bác bảo tôi “Tao sẽ ra Đà Nẳng ở,
tao mua nhà ngoài đó rồi” Tôi hỏi “Bác làm ǵ mà giàu quá vậy?” Bác th́ thầm một
cách bí mật “Mầy đừng cho ai biết, con tao mầy cũng đừng cho biết. Tao bắt được
vàng Hời, một con cua vàng sau miếu Quảng An”
Trở lại chuyện miếu Quảng An. Thường th́ ngày rằm, mồng một có ông Ba Râu ra
thắp nhang, đèn. Cây đèn hột vịt, nhỏ xíu nên ánh sáng mờ ảo, bàn thờ trông càng
thâm u ma quái. Chẳng những bọn trẻ con chúng tôi mà cả đến người lớn cũng sợ.
Mấy chị đàn bà chửi lộn thường gài nhau “Mầy có ngon ra miếu Quảng An thề với
tao, đứa nào ăn ngược nói ngạo, ngài vật cho sặc máu ra”. Lại có lời đồn rằng có
chị gánh nước và anh lính dẫn nhau vô miếu làm ǵ đấy, ngài bắt dính nhau phải
chở đi nhà thương gỡ ra. Nhưng lời đồn hấp dẫn nhất là thỉnh thoảng vào ngày
mồng một có bầy cua vàng ḅ ra kiếm ăn sáng rực cả một góc sân. Nhiều người ŕnh,
nhưng không ai xác nhận có bắt được cua vàng, có thể họ bắt được nhưng giấu
chăng? Chẳng hạn như ông bác họ của tôi bảo có bắt được, riêng tôi vẫn không
tin, tuy không bao giờ nói ra.
Thời câu chuyện tôi đang kể đây khoảng năm 54, khi hiệp định Geneve chia cắt đất
nước và đồng bào Miền Bắc ồ ạt di cư vào Nam. Thành phố Hội An cũng hân hạnh
được đón một số, phần đông là công chức hoặc tiểu thương. V́ thiếu chỗ nên các
đ́nh miếu được trưng dụng làm nơi cư ngụ cho đồng bào. Miếu Quảng An đón một gia
đ́nh, sau nầy tôi biết tên là ông Dần v́ ông có sạp hàng ở chợ Hội An. Người Bắc
di cư đa số là công giáo, họ chẳng sợ ma quỉ bao giờ. Ma quỉ thấy thánh giá là
bỏ chạy cả. Ấy vậy mà miếu Quảng An đă làm cho gia đ́nh ông Dần một phen sợ hăi.
Nghe đồn rằng vào lúc gần khuya, đèn thắp sáng, mọi người c̣n thức, riêng ông
Dần mới thiu thiu th́ đứa con kêu thét lên, bà vợ cũng kêu thét lên khi thấy một
cái đầu từ trên nóc miếu, chỗ có cửa sổ nhỏ, tḥ xuống, cái cổ cứ dài măi ra.
Cái đầu đen thùi, mắt trắng dă, miệng đỏ lói, nhe nanh như muốn cắn người ta.
Khi ông Dần tỉnh ngủ th́ chẳng thấy ǵ nhưng bà vợ cả quyết thấy rất rơ. Theo
lời khuyên của mọi người, ông Dần nhờ một số bạn, buổi tối đến thổi kèn tây ṭ
te cho đến khuya. Ma quỉ nghe kèn tây sẽ bỏ đi hết. Tôi cùng một số bạn tối nào
cũng đến xem thổi kèn. Thấy đèn điện sáng trưng nên không c̣n sợ nữa. Ngày rằm
mồng một vẫn thấy ông Ba Râu vào thắp nhang. Ít lâu sau, h́nh như ông Dần mua
đứt cái miếu nên cửa nẻo được lắp vào, sơn phết lại rất khang trang. từ đó không
thấy cúng kiếng ǵ nữa.
Chuyện người bác tôi tức ông thầy Thọt bảo rằng sẽ ra Đà Nẳng mua nhà chỉ xảy ra
sau khi chuyện ma xuất hiện nhác gia đ́nh ông Dần ít lâu thôi. Tôi không tin
chuyện ông ta bắt được vàng. Trước đó có một lần, lúc gần khuya, trời lâm râm
mưa, tôi đi coi hát về, thấy một người từ sau miếu đi ra. Tuy chỉ thoáng thấy
dáng đi nhưng tôi biết ngay là ông bác tôi. Sáng hôm sau, tôi nói ngay “Khi hôm
con thấy bác sau miếu Quảng An” Bác bảo “Mầy đừng nói ai, tao ŕnh bắt mấy con
cua vàng. Có người ở trong miếu, nó động ổ nên ḅ ra kiếm ăn sau miếu” Thế rồi
ít lâu sau bác mua nhà ngoài Đà Nẳng. Nhà gần chợ Cồn, buôn bán rất khá giả. Sau
nầy lớn lên, có lần ra Đà Nẳng thi tú tài, tôi có trọ nhà bác mấy bữa. Bác vẫn
tử tế như trước. Ngày thi xong bác đăi tôi một bữa tiệc nhỏ “Tao biết mầy thi là
đậu nên tao đăi mầy trước” Nhân lúc ngà ngà hơi rượu tôi hỏi bác “Chuyện con rùa
vàng có thật không bác?” Bác cười cười bảo “Mầy đă thấy rồi c̣n hỏi” “Nhưng con
có thấy ǵ đâu?” “Cứ coi như thấy rồi đi, hỏi làm chi” Tôi biết bác không muốn
nói, nhưng vẫn thắc mắc, không biết chuyện con cua vàng có thật không?
Đậu tú tài xong, tôi vào Sài G̣n học tiếp, rồi thành công chức, rồi sập tiệm,
tôi đi tù. Khi có vụ HO đi Mỹ, tôi ghé thăm bác, ông thầy Thọt ngày trước. Mấy
mươi năm, bác đă già lắm rồi. Tóc bạc, răng rụng nhưng vẫn c̣n vẻ tinh anh. Các
con bác đă lập gia đ́nh, chỉ có cô gái út c̣n sống với vợ chồng bác. Tối đó hai
bác cháu ngồi lai rai, chuyện tṛ đến khuya. Khi bàn đến chuyện có số phận hay
không, bác bảo “Ai cũng tin rằng con người đều có số phận th́ chẳng chịu cố gắng,
chẳng chịu làm lụng, rốt cuộc chỉ đi ăn mày” Tôi căi “Giày dép c̣n có số. Như
bác chẳng làm ǵ cả, chỉ đi ŕnh sau miếu Quảng An mấy lần là bắt được con cua
vàng. Nhiều người cũng ŕnh như bác mà đâu có ǵ. Đúng là bác có số trời cho làm
giàu” “Trời nào mà cho. Tao phải đem mưu kế, đem cái mạng tao ra...” Biết là bác
sắp nói ra điều bí mật nên tôi nói khích “Ǵ mà mưu kế dữ vậy. Chịu khó ŕnh một
lúc. Bữa con thấy bác sau miếu...Cũng giống như con đi chơi khuya về thôi, có
điều đừng sợ ma như bác mới được” “Tao mà sợ ma à? Người ta sợ tao th́ có.
Chuyện ma hiện trong miếu để nhác vợ con ông Dần là tao, chứ ma nào” “Bác làm ma
à? Sao bác lại chổng ngược người ngoài cửa sổ được, lại c̣n kéo cái cổ dài ra?”
“Tao nằm trên nóc miếu tḥ đầu xuống. C̣n chuyện cái cổ dài ra là v́ chúng sợ
quá tưởng vậy thôi” “Nhưng bác leo lên nóc miếu làm ǵ? Tḥ đầu vô miếu làm ǵ?”
Bác cười tỉnh khô, để lộ mấy cái răng c̣n sót, đen thùi “Tao ŕnh để ăn trộm chứ
leo lên làm chi” Tôi năn nỉ “Bác kể thật con nghe, từ đầu đến cuối. Con nghi
đúng mà. Làm ǵ có chuyện con cua vàng” Bác làm một hơi rượu, khà một tiếng, rồi
rung đùi coi bộ khoái trá lắm “Chuyện nầy chỉ vợ tao biết, bây giờ đến mầy là
hết. Mấy đứa con tao mà biết, chúng sẽ khinh tao mà không nghĩ rằng tao đi ăn
trộm chỉ v́ chúng mà thôi” “Nhưng trước giờ bác có làm nghề đó đâu. Bác lúc nào
cũng làm ăn lương thiện. Mà sao bác chỉ ŕnh có nhà ông Dần để ăn trộm mà không
ŕnh nhà khác?” “Bữa gia đ́nh ông Dần mới dọn đến, tao đứng bán kẹo trước miếu
Quảng An. Lúc đó bọn học tṛ đi học về, đứng xem cũng đông. Trong lúc bán, tao
bỗng nghe trong miếu tiếng trẻ con khóc, th́ ra bà Dần đánh đứa con nhỏ. Nó đang
chơi với một mớ toàn vàng. Nhẫn, xuyến, dây chuyền, cà rá, hột xoàn...đứng xa mà
tao thấy chói cả mắt. Tao bỗng nảy ra ư định ăn trộm v́ thấy họ để của bừa băi
như thế ắt dễ t́m ra. Tao ŕnh mấy đêm, thấy khó ăn quá, nhất là sau vụ vợ con
ông ta thấy tao tưởng ma, nhưng ông Dần không tin. Mấy hôm sau tao thấy ông treo
khẩu súng lục chỗ cột nhà, có lẽ mượn của ai đó để cảnh cáo tên trộm” “Coi bộ
khó ăn, lại nguy hiểm nữa. Mất mạng như chơi” Tôi nói thế để bác thầy thọt của
tôi hứng chí, nói tiếp. Mà tôi thấy cũng nguy hiểm thật. Bác cười khoái trá “Mầy
thấy con người hơn nhau ở cái đầu...Tao định trộm luôn khẩu súng nhưng làm thế
khác ǵ chọc ổ kiến lửa là cảnh sát. Tao chỉ t́m lấy gói vàng mà thôi” “Nhưng
sau đó ông Dần vẫn có tiền mở sạp áo quần ở chợ Hội An?” “Người chạy loạn nào
cũng khôn mới sống được. Họ chia của. Vợ một ít, con một ít, rủi có tản lạc th́
cũng c̣n cái để mà sống. Tao biết nên chỉ t́m thấy một gói đủ rồi. Chẳng phải
nhân đạo, nhưng lấy hết bắt buộc họ phải thưa cảnh sát để t́m cho ra. Mất chút
đỉnh th́ họ làm thinh luôn” “Nhưng người ta cảnh giác như thế, bác làm sao mà
lục lọi được?” “Đó, tao đă nói, dùng cái đầu trước, chân tay mới cục cựa sau”
“Bác nói hết luôn đi. Cứ ḷng ṿng!” “Mầy biết ông Ba Râu không? Ông đó chuyên
thắp nhang ngoài miếu Quảng An. Tao chờ lúc ông ta đi vắng đến nhà tráo một mớ
mê hồn hương vào bó nhang. Hít một chút là ngủ say như chết. Ngày rằm, mồng một
ông ta đem nhang ra thắp ngoài miếu, thế là tao vào miếu lục soạn, cả nhà ông
Dần đă bị mê hồn hương th́ có khiêng mà vất ngoài đường cũng không hay” “Nhưng
mê hồn hương ở đâu bác có?” “Cái nầy th́ tao đă thề bán mạng không cho ai biết”
“Bác cứ nói đại khái thôi, đâu cần phải nêu tên” “Ừ, đó là ông thầy của tao. Ông
ta là tổ sư ăn trộm. Lúc đó ông ta đă già nhưng giàu lắm. Ngay ở Hội An ḿnh.
Có nói tên mầy cũng không tin. Ông ta có bổn phận là ngày giỗ tổ phải cúng tổ
bằng của ăn trộm. Ông ta già quá mà không có đồ đệ nên bảo tao đi ăn cắp giùm
ông ta một vật ǵ đó để cúng tổ. Lúc đó tao nói rơ ư định ăn trộm nhà ông Dần,
ông ta chỉ ngồi xích lô đi ngang trước miếu Quảng An có một lần là bày mưu cho
tao làm vố đó. Dĩ nhiên muốn có mê hồn hương tao phải lạy ông ta làm sư phụ, lạy
tổ xin vào nghề. Trộm vụ đó tao cúng tổ chiếc nhẫn vàng. Nhưng đó là vụ đầu tiên
và cũng là vụ cuối cùng của tao” Tôi định bảo “Mưu kế là ở sư phụ bác, vậy mà
bác kể như bác tài lắm vậy” Nhưng tôi chỉ hỏi “Sau nầy bác có đến thăm sư phụ
của bác không?” “Có chứ! Tao đâu quên ơn thầy. thỉnh thoảng tao về Hội An ghé
thăm. Ông ta giàu quá, đâu cần ḿnh giúp, chỉ cần ngồi nghe ông ta tâm t́nh là
ông ta vui rồi. Ông ta kể, học nghề từ lúc c̣n nhỏ. Nghề nầy c̣n bí mật gấp mấy
lần Thiên Địa Hội, kỷ luật th́ chỉ có sống hoặc chết thôi. Hể sư phụ ra lệnh là
đồng nghiệp giết ngay” “Bác có đồng nghiệp không?” “Bây giờ ăn cắp vặt th́ được,
ai dám lọ mọ ŕnh rập trong bóng tối, cảnh sát hay lính thấy được có mà ăn đạn.
Mầy thấy cái trang thờ đàng kia là bàn thờ tổ. Ông thầy tao trước khi chết,
truyền bài vị tổ sư cho tao v́ không c̣n ai nối nghiệp” “Như vậy sư phụ phải
truyền cho bác các bí quyết ăn trộm chứ?” “Dĩ nhiên. Ông thầy chỉ tao cách
nghiên cứu địa h́nh địa vật, tính t́nh, thói quen những người trong gia đ́nh mà
ḿnh sắp hành nghề, cách đào tường khoét vách, cách trừ chó, cách tẩu tán của ăn
trộm, cách khai báo nếu rủi bị bắt, cách chịu đ̣n sao cho không bị đánh vào chỗ
nhược...” “Có truyền cho bác cách làm mê hồn hương không?” “Có chứ, cái nầy mới
là bí truyền...” Tôi nói đùa “Bác nhận con làm đồ đệ rồi truyền cách chế mê hồn
hương đi” “Tướng mầy mà trộm đạo ǵ được” “Ủa, bộ ăn trộm cũng phải có tướng sao?”
“ Th́ phải có tướng ăn trộm mới nhận làm đồ đệ. Đâu có dễ mầy!” “Chắc sư phụ
cũng truyền nghề xem tướng ăn trộm cho bác. Bác nói thử tướng ăn trộm ra sao?”
“Dễ quá! Mầy thấy có nhiều người đến nhà ai, cửa chính không vào mà cứ vào cửa
hông hoặc hay ḍm vô cửa sổ nhà người ta, khi nói chuyện th́ mắt láo liêng nh́n
khắp nơi mà không nh́n thẳng vào người đối diện...Tao không nói họ là ăn trộm,
nhưng có khiếu ăn trộm, truyền nghề được. Chắc ăn nhất là mấy đứa nhỏ hay ăn cắp
vặt, chúng có máu ăn trộm bẩm sinh trong người” “C̣n mê hồn hương? Bác có biết
làm không? Bác nói đại khái nghe cho vui thôi, đâu cần chi tiết” “Ừ! Mầy biết
mấy người đánh cá biển, thỉnh thoảng có người bị con rắn biển mà họ gọi là con
“đẻn” cắn, cứ mê man, không biết ǵ hết. Không có thuốc chữa. Ngủ hoài rồi chết
luôn. Nếu biết cách th́ xúm nhau cứ phèn la, chuông, mơ gơ liên tục, lại phải
banh mắt, la hét vào tai, gọi tên người bị nạn, hỏi chuyện... đừng cho ngủ. Phải
la to “Không được ngủ, không được ngủ, ngủ là chết!” Cố sao cho được một ngày,
một đêm, nọc độc tan là sống. Bắt được con “đẻn” loại đó, đem về phơi cho thật
khô, sao vàng, tán nhuyễn thành bột rồi làm như người ta làm nhang vậy. Tức là
cũng chẻ tre thành cọng nhang, nhúng hồ rồi lăn trên bột “đẻn”, phơi cho thật
khô, thế thôi. Khi muốn “hun” nhà ai, cứ đốt lên, nhè cửa sổ mà quạt vào...”
“Bác có làm thử chưa?” “Tao có làm rồi nhưng không hiệu quả. Có lẽ không đúng
loại “đẻn” ḿnh cần. Ông thầy tao có cho bức tranh vẻ con “đẻn” đó, nó không
giống thứ người ta đem bán cho tao, nhất là mấy cái khoanh màu trên ḿnh nó. Nó
dẹp lép như lá lúa. Tao hỏi dân biển, vài người bảo có thấy nhưng hiếm lắm, độc
lắm, không ai dám động đến. Nghe nói nước miếng của nó thôi, dính chỗ nào trên
người là chỗ đó lở ra thành từng vạt như người bị phỏng nặng vậy. Không có thuốc
chữa...”
Tôi nghĩ rằng, ông bác họ tôi đă không nói thật. Tôi nh́n quanh, thấy căn nhà
tuy không lớn nhưng ở địa thế buôn bán như thế nầy th́ chỉ một vụ trộm đó thôi,
làm ǵ mua nổi. Ông muốn giấu thật kĩ chuyện làm ăn không lương thiện nầy, nhưng
giữ măi trong bụng, ấm ức, chịu không được. Nay thấy tôi cũng có thể tin tưởng,
vả lại tôi sắp đi Mỹ rồi, nên thổ lộ chút ít cho hả cái thú vị, khoái trá bấy
lâu nay. Thử nghĩ coi, đang nghèo khó, nhà tranh vách lá, mưa dột tứ tung, cái
ăn không đủ, bỗng nhiên mua nhà mặt tiền, mở tiệm...
Người trúng số phải la lên thật to, cười cho sướng, vênh mặt lên trời cho bỏ
ghét cuộc đời...Nhưng ông bác tôi th́ chịu, không thể làm như thế! Chả lẽ lại
kêu lên “Tôi ăn trộm nên mới được như thế nầy!”?